Dichlorodiphenyltrichloroethane

Tôi đã từng là một anh hùng, nhưng bây giờ tôi bị cấm.
Tôi là phân tử nào?

thuoc tru sau DDT
Cấu trúc hóa học của dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT). Ảnh: LGC Standards

Sự thật nhanh về Dichlorodiphenyltrichloroethane

Số đăng ký CAS No.50-29-3
Danh pháp ScifinderBenzene, 1,1’-(2,2,2-trichloroethylidene)bis(4-chloro-
Công thức thực nghiệmC14H9Cl5
Khối lượng phân tử354,49 g / mol
Trạng tháiTinh thể hoặc bột màu trắng
Độ nóng chảy110.0–110.5°C
Khả năng hòa tan trong nước25 µg / L

Đôi nét

Dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT) là một loại thuốc trừ sâu khét tiếng được coi là một bước đột phá khoa học vĩ đại. Nó có nhiều tên khác, bao gồm tên chính thức hơn là 1,1’-(2,2,2-trichloroethylidene)bis(4-chlorobenzene) và 1,1,1-trichloro-2,2-bis(p-chlorophenyl)ethane.

DDT được biết đến từ năm 1874, khi nhà hóa học người Áo Othmar Zeidler tổng hợp nó từ chloral (trichloroacetaldehyde) và chlorobenzene. Nhưng nó không được phát hiện là một loại thuốc trừ sâu mạnh cho đến 65 năm sau.

Nhà hóa học Thụy Sĩ Paul Hermann Müller, làm việc tại JR Geigy (Basel; nay là một phần của Novartis International), đã nghiên cứu cách côn trùng hấp thụ hóa chất. Dựa trên nghiên cứu này, ông đã tổng hợp các phân tử mà ông cho rằng sẽ bị côn trùng hấp thụ và giết chúng. Năm 1939, sau 4 năm nghiên cứu, hợp chất thứ 350 mà Müller thử nghiệm, DDT, đã giết chết một con ruồi. Với công trình đột phá này và sau đó, ông đã nhận được giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1948.

tong hop DDT
Quy trình tổng hợp DDT. Ảnh: Brainly.in

DDT đã thành công ngay lập tức trong việc chống lại côn trùng mang bệnh và phá hoại mùa màng. Nó đã được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ hai và trong ba thập kỷ sau đó để kiểm soát côn trùng mang mầm bệnh cho bệnh sốt rét và sốt vàng da. Nó được ghi nhận là đã cứu sống hàng triệu người có khả năng đã chết vì những căn bệnh này và những bệnh khác.

Tuy nhiên, ngay sau khi DDT được giới thiệu, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nó có một mặt tối. Đối với con người và nhiều loài động vật khác, nó hoạt động như một chất độc cấp tính và mãn tính. Nó là một chất gây rối loạn nội tiết có thể làm giảm khả năng sinh sản và gây hại cho phôi thai hoặc thai nhi. Nó cũng là một chất có thể gây ung thư. 

Tệ hơn nữa, nó không thể phân hủy sinh học và do đó có thể tích tụ trong các mô động vật có hàm lượng lipid cao. Rachel Carson đã kêu gọi sự chú ý đến sự nguy hiểm của DDT trong cuốn sách Silent Spring năm 1962 được đọc rộng rãi của bà.

Công việc của Carson và những phát hiện sau đó đã dẫn đến việc hạn chế sử dụng DDT và vào năm 1972, lệnh cấm hoàn toàn đối với việc sử dụng nó trong nông nghiệp ở Hoa Kỳ. Theo Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, nó đã bị cấm trên toàn thế giới vào năm 2004; nhưng nó vẫn được sử dụng, một phần gây tranh cãi, trong các trường hợp khẩn cấp chống lại sự bùng phát bệnh sốt rét.

Lệnh cấm DDT được công nhận là một yếu tố chính trong việc ngăn chặn sự tuyệt chủng của đại bàng hói và chim ưng peregrine ở Hoa Kỳ. Vào ngày 10 tháng 1, Ngày cứu Đại bàng, bạn có thể kỷ niệm năm 2007 loại đại bàng hói khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng.

Thông tin về nguy cơ của Dichlorodiphenyltrichloroethane

Nhóm sự cố*Mã GHS và tuyên bố nguy cơ
Độc tính cấp, đường uống, loại 3H301 — Độc nếu nuốt phải Cảnh báo An toàn Hóa chất
Độc tính cấp, qua da, loại 3H311 — Độc khi tiếp xúc với daCảnh báo An toàn Hóa chất
Khả năng gây ung thư, loại 2H351 — Bị nghi ngờ gây ung thưCảnh báo An toàn Hóa chất
Độc tính trên cơ quan đích cụ thể, phơi nhiễm nhiều lần, qua đường miệng, loại 1H372 — Gây tổn thương các cơ quan khi tiếp xúc lâu dài hoặc lặp đi lặp lại nếu nuốt phảiCảnh báo An toàn Hóa chất
Mối nguy thủy sinh ngắn hạn (cấp tính), loại 1H400 — Rất độc đối với đời sống thủy sinhCảnh báo An toàn Hóa chất
Mối nguy thủy sinh lâu dài (mãn tính), loại 1H410 — Rất độc đối với đời sống thủy sinh với những ảnh hưởng lâu dàiCảnh báo An toàn Hóa chất

* Hệ thống hài hòa toàn cầu (GHS) về phân loại và ghi nhãn hóa chất. Giải thích từ tượng hình.

Tham khảo ACS.